Sơ lược lịch sử Văn_minh_sông_Hồng

Giai đoạn Văn hóa Hòa Bình

Xem bài chính: Văn hóa Hòa Bình

Cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30 tháng 1 năm 1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới.

Một phần của loạt bài về
Các nền văn hóa cổ
Việt Nam
Hậu kỳ Thời đại đồ đá cũ
Văn hóa Tràng An (23.000 TCN - 1000 TCN)
Văn hóa Sơn Vi (20.000 - 12.000 TCN)
Văn hóa Soi Nhụ (18.000 - 7.000 TCN)
Thời đại đồ đá mới
Văn hóa Hòa Bình (12.000 - 10.000 TCN)
Văn hóa Bắc Sơn (10.000 - 8.000 TCN)
Văn hóa Quỳnh Văn (8.000 - 6.000 TCN)
Văn hóa Cái Bèo (7.000 - 5.000 TCN)
Văn hóa Đa Bút (6.000 - 5.000 TCN)
Thời đại đồ đồng đá
Văn hóa Hạ Long (3.000 - 1.500 TCN)
Văn hóa Phùng Nguyên (2.000 - 1.500 TCN)
Văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc
Văn hóa Tiền Sa Huỳnh (2.000 - 1.000 TCN)
Trung kỳ thời đại đồ đồng
Văn hóa Đồng Đậu (1.500 - 1.000 TCN)
Hậu kỳ thời đại đồ đồng
Văn hóa Gò Mun (1.000 - 600 TCN)
Thời kỳ đồ sắt
Văn hóa Đông Sơn (700 TCN - 100)
Văn hóa Sa Huỳnh (1.000 TCN - 200)
Văn hóa Đồng Nai (1.000 TCN - 0)
Văn hóa Óc Eo (1 - 630)

Qua thời gian, tất nhiên, cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Lúc đầu, nó chỉ nói về nền văn hóa có khoảng không gian là miền Bắc Việt Nam, và khoảng thời gian không quá 5.000 năm trước đây. Nhưng khoảng không gian lẫn thời gian trên được nới rộng dần. T. M. Matthews có lẽ là người đầu tiên đã đem "Văn hóa Hòa Bình" vượt khỏi lãnh thổ Việt Nam đến các vùng Đông Nam Á, và rồi người ta nói đến Văn hóa Hòa BìnhMiến Điện, Campuchia, Lào, Malaysia, Sumatra, Thái Lan, Ấn Độ, Tứ Xuyên... Nhưng có lẽ không ai mở rộng ảnh hưởng của Văn hóa Hòa Bình bằng Gs. W. G. Solheim II. Về không gian, ông đã đưa Văn hóa Hòa Bình, phía Đông Bắc đến Philippines, Nhật Bản, phía Tây đến Thái Lan, phía Nam đến tận Australia và phía Bắc bao trùm cả hai nền văn hóa cổ của Trung Hoa là Ngưỡng Thiều (Yan Shao) và Long Sơn. Về thời gian, ông không định rõ, nhưng tuyên bố không ngạc nhiên nếu thấy việc thuần hóa cây lúa nước đã có tại Hòa Bình từ 15.000 năm trước Công Nguyên, và những dụng cụ đá mài có lưỡi bén tìm thấy ở Bắc Australia có tuổi khoảng 20.000 năm trước Công Nguyên đo bằng cácbon C14 có nguồn gốc từ nền Văn hóa Hòa Bình. Đấy là chưa kể đến dự phóng của ông về niên đại Hòa Bình lên đến 50.000 năm trước khi ông viết "Đông Nam Á và tiền sử học thế giới" đăng trong Viễn Cảnh châu Á, tập XIII năm 1970. Riêng trong phạm vi nước Việt Nam ngày nay, Văn hóa Hòa Bình được khoa học khảo cổ phân chia thành ba thời kỳ:

  • Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TCN).
  • Hòa Bình giữa, hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 TCN), Làng Vành (16.470 ± 80 TCN).
  • Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I).

Giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên

Xem bài chính: Văn hóa Phùng NguyênDi chỉ đá muộn Phùng Nguyên

Việc phát hiện ra di chỉ ở Phùng Nguyên thuộc về các nhà khảo cổ học Việt Nam (năm 1959). Giai đoạn này các nhà khảo cổ học chưa tìm thấy nhiều các hiện vật bằng đồng. Di vật ở lớp văn hóa Phùng Nguyên chủ yếu là các công cụ đá mài sắc sảo, có vai và đặc biệt khá nhiều đồ trang sức bằng đá. Có thể liệt kê số di vật tìm thấy ở các lần khai quật di chỉ Phùng Nguyên là: 1.138 rìu, 59 đục, 3 giáo, 2 mũi nhọn, 7 mũi tên, 1 cưa, 189 bàn mài; 540 vòng tay, 8 khuyên tai, 34 hạt chuỗi, 3 đồ trang sức và hàng chục vạn mảnh đồ gốm 1.

Theo đánh giá của giới khoa học, cư dân Phùng Nguyên là những người đã định cư ổn định và sống theo từng cụm dân cư làng xã chặt chẽ và đã thực sự có những khu vực sản xuất thủ công, mỹ nghệ.

Văn hóa Phùng Nguyên đã phát triển liên tục vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên tức cách đây khoảng từ 3.000 đến 4.000 năm. Những kết quả phân tích phóng xạ đồng vị C14 của carbon đã xác định là những truyền thuyết về kỷ Hồng Bàng khoảng 4000 năm xưa là có cơ sở[3].

Giai đoạn Văn hóa Đồng Đậu

Giai đoạn Đồng Đậu, căn cứ vào di chỉ khảo cổ Đồng Đậu Vĩnh Phúc phát hiện năm 1964 có niên đại là 3070 ± 100 năm cách ngày nay (nửa sau thiên niên kỷ II trước công nguyên).

Hiện vật đồ đồng sớm nhất châu Á của người Việt Cổ

Giai đoạn Văn hóa Gò Mun

Giai đoạn Văn hóa Gò Mun căn cứ vào di chỉ Gò Mun thuộc Phú Thọ, phát hiện năm 1961 tồn tại vào nửa đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, có niên đại C14 là: 3045 ± 120 năm cách năm 1950[4] thuộc văn hóa Gò Mun. Đặc điểm của giai đoạn này là kỹ thuật luyện kim khá phát triển, công cụ bằng đồng thau chiếm ưu thế (52%).

Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn

Xem bài chính: Văn hóa Đông Sơn

Giai đoạn Đông Sơn căn cứ vào hiện vật thuộc di chỉ Đông Sơn Thanh Hóa có niên đại sớm là 2820 ± 120 năm[5]. Ngoài ra còn nhiều di chỉ thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn có niên đại kế tiếp nhau như Việt Khuê, Làng Vạc, Châu Can đã được phát hiện.

Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ sự phát triển rực rỡ của đồ đồng đạt đến mức hoàn hảo cả về mặt kỹ thuật và mỹ thuật sang sơ kỳ đồ sắt. Giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn kéo dài đến vài ba thế kỷ sau Công nguyên.

Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc

Nơi thờ 18 đời Vua Hùng

Quá trình thống nhất Văn hóa Đông Sơn cũng là quá trình liên kết các nhóm cư dân Việt cổ - người Lạc Việt thành một quốc gia với một hình thái nhà nước sơ khai. Đó là nước Văn Lang đời Hùng Vương. Theo đánh giá của các chuyên gia khảo cổ học thì nhà nước Văn Lang hình thành vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ III trước Công Nguyên, tức là cách ngày nay gần 5.000 năm. Nước Văn Lang chuyển giao "hòa bình" thành nước Âu Lạc. An Dương Vương dời Đô từ Phong Châu về Cổ Loa.

Nước Văn Lang ra đời trên một nền tảng kinh tế đã phát triển, chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước đạt đến trình độ dùng lưỡi cày bằng đồng thau và sức kéo của trâu, , voi. Chăn nuôi có chó, lợn, , vịt, trâu, bò, voi. Nghề thủ công có đúc đồng, luyện sắt, làm đồ gốm, đan lát, mộc, dệt, sơn... Nhà cửa, trang phục, nhiều phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa còn được ghi lại bằng hình ảnh trên các di vật Đông Sơn, nhất là trên trống đồng.

Tuy đồ đồng tìm thấy ở Đông Sơn đầu tiên, nhưng tuổi của nó không phải sớm nhất mà muộn nhất trong nền văn hóa Đông Sơn. Người ta đã chứng minh được nó kế thừa di sản từ Văn hóa Phùng Nguyên, Văn hóa Đồng Đậu, Văn hóa Gò Mun trước khi đến Đông Sơn, Thanh Hóa.

Thời kỳ này ở khu vực đồng bằng trung du Bắc Bộ là đất đai, lãnh thổ của Vua Hùng tên là Lạc Việt (quốc hiệu là Văn Lang). Vào khoảng thế kỷ thứ III TCN Thục Phán người vương quốc Âu Việt giành vương quyền của nước Văn Lang trong "hòa bình", rời Đô từ Phong Châu về Cổ Loa (Hà Nội ngày nay) đặt tên vương quốc Âu Lạc.

Vương quốc Nam Việt (207 TCN - 111 TCN)

Triệu Đà[6] sau nhiều lần đánh chiếm quốc gia Âu Lạc thất bại, đã dùng mưu kế đánh bại được Thục Phán An Dương Vương vào năm 207 TCN và gộp lãnh thổ Nam Hải, Quế Lâm (nay là hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc) vào với lãnh thổ Âu Lạc đặt tên nước là Nam Việt.

Thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN - 939)

Thời kỳ Bắc Thuộc cung là thời kỳ nền Văn minh sông Hồng được tiếp thêm sức mạnh từ việc du nhập những yếu tố còn khiếm khuyết của mình như, chữ Hán, tư tưởng và các luồng tôn giáo. Thời kỳ Bắc Thuộc cũng là thời kỳ Văn hóa Đông Sơn hình thành một tầng lớp giai cấp mới: Nho học (hay còn gọi là Sỹ Phu).

Các bậc vua chúa của kẻ xâm lược rất muốn đồng hóa một nền văn minh lớn như Đông Sơn, nhưng thất bại. Cư dân Đông sơn vẫn giữ được tiếng nói, phong tục tập quán, các quan hệ làng xã và siêu làng bền chặt. Có lẽ câu thành ngữ "phép vua thua lệ làng" ra đời từ thời kỳ Bắc Thuộc.

Sự giao thoa văn hoá cũng là yếu tố làm mạnh mẽ và tăng thêm các giá trị tiên tiến bằng sự bổ sung những thiếu hụt giữa các nền văn hoá. Thời kỳ Bắc Thuộc cũng góp phần cho một sự vùng dậy mạnh mẽ của một nền văn hóa bản địa Đông Sơn lâu đời và là tiền đề để những cư dân Việt tạo ra một thời kỳ hoàng kim sau này là Đại Việt[7].

Giai đoạn Hoàng kim - Đại Việt

Trường đại học đầu tiên của Đại Việt 1076-Quốc Tử Giám

Lịch sử của dân tộc Việt là một chặng dài đầy biến cố nhưng cũng là một trong những dân tộc kiên cường trước các cuộc xâm lăng về lãnh thổ, đồng thời sức kháng cự của một nền văn hóa lâu đời Đông Sơn đã không để cho các triều đại phong kiến phương Bắc hùng mạnh đồng hóa.

Năm 931, người đặt nền móng cho sự kháng cự với triều đại Nam HánDương Đình Nghệ. Chiến thắng quân Nam Hán, nhưng Dương Đình Nghệ chưa thể đủ uy lực để phục quốc mà vẫn tự phong chức Tiết độ sứ.

Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, một thuộc tướng và là hào trưởng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Lúc bấy giờ, Ngô Quyền là con rể của Dương Đình Nghệ, tập hợp được đông đảo dân chúng chiếm thành Đại La, (Nam Hà Nội ngày nay).

Triều đình Nam Hán rất muốn đưa quân sang để thu hồi đất Giao Chỉ và đã cử Hoằng Tháo cùng với đội thuyền chiến đi theo đường biển tiến về đồng bằng Bắc Bộ. Kết cục, cả một đoàn binh thuyền lớn của quân Nam Hán vừa vượt biển tiến vào mạn sông Bạch Đằng đã được nhử vào thế trận đã bày sẵn và bị tiêu diệt gọn trong một thời gian rất ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của quân Nam Hán bị đánh đắm, hầu hết quân xâm lược bị tiêu diệt. Chủ soái của giặc là Lưu Hoằng Tháo cũng bị giết tại trận.

Sau chiến thắng chấm dứt hơn 1.000 năm Bắc thuộc, Ngô Quyền bắt đầu xây dựng quốc gia độc lập. Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độ sứ, định đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Ông đặt ra chức quan văn, võ, nghi lễ trong triều. Nhưng đáng tiếc thời gian tại ngôi của ông thật ngắn ngủi, chỉ được 6 năm (939-944).

Xem thêm: Trận chiến Bạch Đằng Giang 938

Triều Ngô bắt đầu từ Ngô Quyền, qua Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn đến Ngô Xương Xí, truyền được 3 đời, kéo dài 26 năm. Đến Ngô Xương Xí trong nước có tất cả 12 sứ quân, gây ra loạn lạc nồi da nấu thịt kéo dài hơn 20 năm.

Những sứ quân ấy giành giật lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho nhân dân vô cùng khổ sở. Về sau, Đinh Bộ LĩnhHoa Lư dẹp loạn 12 sứ quân, quy giang sơn về một mối, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh. Triều Ngô kết thúc năm 965 và bắt đầu triều đại nhà Đinh (968-980). Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.

Tiếp đến là triều đại nhà Tiền Lê (980-1009) khởi đầu từ Lê Đại Hành và kết thức bởi ông vua bạo ngược Lê Long Đĩnh.

  • Củng cố độc lập - chiến tranh vệ quốc

Theo các nhà sử học và qua các tài liệu cổ, Văn minh sông Hồng thực sự nhận được sức bật lần thứ hai là bắt đầu bởi triều Lý (1010-1225). Thời kỳ này Đại Việt dưới triều Lý thăng hoa như tên gọi thủ đô của triều Lý - Thăng Long.

Thành tựu văn hóa và tư tưởng cũng như tôn giáo đều phát triển nhanh chóng và xã hội Đại Việt sống trong cảnh thanh bình, giàu có kéo dài hơn 200 năm. Xã hội Đại Việt có trật tự và đạo đức, kinh tế, quân sự và văn hóa đều phát triển nhanh chóng và ổn định. Thời kỳ này đã xây đắp một nền móng vứng chắc cho triều đại nhà Trần sau này đã chiến thắng 3 lần quân xâm lược Nguyên-Mông, mà bản thân triều đình nhà Tống không làm được.

Triều đại nhà Trần (1225-1400) kế thừa di sản rực rỡ hơn 200 năm của nhà Lý. Nhà Trần đã để lại cho lịch sử Đại Việt những di sản như những bản anh hùng ca về sự hùng mạnh và văn minh của hơn 400 năm xây dựng nhà nước độc lập, chống trả và đánh lùi những đạo quân xâm lược hùng mạnh nhất trong lịch sử thời Trung cổ.

Xem thêm: Nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên Mông

Triều đại nhà Hồ:

Sau khi bức vua Trần rời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ.

Triều đình nhà Minh (Trung Quốc) rất muốn chinh phạt Đại Việt, nhân cơ hội Hồ Quý Ly đảo chính, cướp ngôi nhà Trần, nên vào năm 1407 quân nhà Minh tràn vào đất Đại Việt. Hồ Quý Ly liên tục thất bại và đến tháng 6 năm 1407, Hồ Quý Ly cùng con trai Hồ Nguyên Trừng bị bắt và vương quốc Đại Ngu sụp đổ.

Giai đoạn suy sụp của thời kỳ Bắc Thuộc ngắn ngủi, nhưng lại nuôi một sự trỗi dậy mạnh mẽ của người Việt khi bị triều đình nhà Minh Hán hóa có chủ đích và quyết liệt. 20 năm dưới sự cai trị của nhà Minh, Đại Việt bị tàn phá nặng nề, các di sản, các báu vật bị cướp, người tài và các học gia bị bắt đưa về Trung Quốc, chùa chiền, miếu mạo bị đốt phá. Tất cả những gì quân xâm lược làm là có chủ đích tận diệt ý chí phản kháng và sự nuối tiếc một nền văn minh sông Hồng. Dân Việt đoàn kết đứng đậy để cứu nền văn minh của mình và mở ra triều nhà Hậu Lê rực rỡ.

Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, v.v… chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh cứu nước.

Kết thúc cuộc chiến bằng cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh nhà Minh tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427.

Sau khi đuổi hết quân xâm lược nhà Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, dựng lên vương triều Lê. Lê Lợi ở ngôi được 5 năm thì mất (năm 1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Lê Thái Tổ.

Trải qua các đời trị vì của các vua nhà Hậu Lê kể từ Lê Thái Tổ cho đến thời cai trị của Hoàng Đế Lê Thánh TôngLê Hiến Tông, Đại Việt phát triển mạnh mẽ và dân chúng sống trong yên vui, đất nước thịnh trị, mở mang bờ cõi về phương Nam, lãnh thổ Đại Việt kéo dài từ ải Nam Quan vào đến Thạch Bi Sơn (thuộc Phú Yên ngày nay).

Xem bài chính: Lê Thánh Tông và đế chế Đại Việt